Theo Điều 189, 190, 191, 192 Luật Thương mại năm 2005 số hiệu 36/2005/QH11 do Quốc hội ban hành ngày 14/06/2005 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, quyền và nghĩa vụ của người tổ chức đấu giá, người bán hàng không phải người tổ chức đấu giá được quy định như sau:
I- NGƯỜI TỔ CHỨC ĐẤU GIÁ
1. Quyền của người tổ chức đấu giá
Trừ trường hợp có thoả thuận khác, người tổ chức đấu giá có các quyền sau đây:
– Yêu cầu người bán hàng cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin cần thiết liên quan đến hàng hoá đấu giá, tạo điều kiện cho người tổ chức đấu giá hoặc người tham gia đấu giá kiểm tra hàng hoá đấu giá và giao hàng hoá được bán đấu giá cho người mua hàng trong trường hợp người tổ chức đấu giá không phải là người bán hàng đấu giá;
– Xác định giá khởi điểm trong trường hợp người tổ chức đấu giá là người bán hàng đấu giá hoặc được người bán hàng uỷ quyền;
– Tổ chức cuộc đấu giá;
– Yêu cầu người mua hàng thực hiện việc thanh toán;
– Nhận thù lao dịch vụ đấu giá do người bán hàng trả theo quy định tại Điều 211 của Luật này.
2. Nghĩa vụ của người tổ chức đấu giá
– Tổ chức đấu giá hàng hoá theo đúng nguyên tắc, thủ tục do pháp luật quy định và theo phương thức đấu giá thoả thuận với người bán hàng.
– Thông báo, niêm yết công khai, đầy đủ, chính xác các thông tin cần thiết có liên quan đến hàng hoá đấu giá.
– Bảo quản hàng hoá đấu giá khi được người bán hàng giao giữ.
– Trưng bày hàng hoá, mẫu hàng hóa hoặc tài liệu giới thiệu về hàng hóa cho người tham gia đấu giá xem xét.
– Lập văn bản bán đấu giá hàng hoá và gửi đến người bán hàng, người mua hàng và các bên có liên quan quy định tại Điều 203 của Luật này.
– Giao hàng hóa đấu giá cho người mua phù hợp với hợp đồng tổ chức dịch vụ đấu giá hàng hoá.
– Làm thủ tục chuyển quyền sở hữu đối với hàng hoá bán đấu giá phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với người bán hàng.
– Thanh toán cho người bán hàng tiền hàng đã bán, kể cả khoản tiền chênh lệch thu được từ người rút lại giá đã trả quy định tại khoản 3 Điều 204 của Luật này hoặc trả lại hàng hoá không bán được cho người bán hàng theo thoả thuận. Trường hợp không có thoả thuận thì phải thanh toán tiền cho người bán hàng chậm nhất là ba ngày làm việc sau khi nhận được tiền của người mua hàng hoặc phải trả lại ngay hàng hoá trong thời hạn hợp lý sau cuộc đấu giá.
II- NGƯỜI BÁN HÀNG (không phải là người tổ chức đấu giá)
1. Quyền của người bán hàng (không phải là người tổ chức đấu giá)
Trừ trường hợp có thoả thuận khác, người bán hàng có các quyền sau đây:
– Nhận tiền hàng đã bán đấu giá và khoản chênh lệch thu được trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 204 của Luật này hoặc nhận lại hàng hoá trong trường hợp đấu giá không thành;
– Giám sát việc tổ chức bán đấu giá hàng hoá.
2. Nghĩa vụ của người bán hàng (không phải người tổ chức đấu giá)
Trừ trường hợp có thoả thuận khác, người bán hàng có các nghĩa vụ sau đây:
– Giao hàng hoá cho người tổ chức đấu giá, tạo điều kiện để người tổ chức đấu giá, người tham gia đấu giá xem xét hàng hoá và cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin cần thiết liên quan đến hàng hoá đấu giá;
– Trả thù lao dịch vụ tổ chức đấu giá theo quy định tại Điều 211 của Luật này.